model trains for beginners 728 x 90 728 x 90

TỔNG HỢP Ý KIẾN VỀ CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG TRONG DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 (HIỆN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC)

Chế định hợp đồng là một trong những chế định rất quan trọng của BLDS, có tần suất áp dụng rất cao trên thực tế và có khả năng ảnh hưởng quan trọng đến sự vận hành của phần lớn các giao dịch dân sự. Vì vậy, các đại biểu tham dự hai Hội thảo đã có rất nhiều ý kiến đóng góp sửa đổi chế định này từ những vấn đề có tính bao trùm (như trật tự áp dụng pháp luật) đến những chi tiết rất cụ thể trong từng nội dung của chế định này.
1. Về mối quan hệ giữa chế định hợp đồng trong BLDS và chế định hợp đồng trong pháp luật chuyên ngành:
Phần lớn các ý kiến tại Hội thảo đều nhất trí cho rằng quy định về hợp đồng trong BLDS sẽ áp dụng chung cho tất cả các hợp đồng mang tính chất “tư”. Các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành là những quy định đặc thù, áp dụng riêng cho loại hợp đồng chuyên ngành liên quan. Như vậy, đối với mỗi loại hợp đồng, sẽ ưu tiên áp dụng quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan, trường hợp pháp luật đó không quy định thì áp dụng các quy định chung về hợp đồng trong BLDS. Điều này là phù hợp với quan niệm về mối quan hệ giữa BLDS (luật chung) và các văn bản pháp luật chuyên ngành (luật riêng) khác. Từ lập luận này, các đại biểu tham dự Hội thảo hầu hết đều thống nhất ý kiến cho rằng:
Thứ nhất, bỏ thuật ngữ “dân sự” trong cụm từ “hợp đồng dân sự” tại BLDS để các quy định về hợp đồng tại đây có thể áp dụng đồng thời cho tất cả các loại hợp đồng (trong đó có các hợp đồng thương mại).
Thứ hai, sự tồn tại của pháp luật về hợp đồng chung (trong BLDS) và pháp luật về các loại hợp đồng đặc thù về cơ bản có thể tạo khung khổ pháp lý cần thiết cho các loại hợp đồng. Điều này khiến cho sự tồn tại của Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế 1989, quy định về hợp đồng kinh tế nói chung (mà hiện nay đã được hiểu chung là hợp đồng thương mại theo nghĩa rộng), không còn cần thiết, không tuân thủ nguyên tắc tự do thoả thuận. Ngoài ra, nhiều quy định chi tiết của Pháp lệnh này đã lạc hậu, không còn phù hợp và do đó gây ra nhiều bất hợp lý trong quá trình áp dụng cho các chủ thể.
Vì vậy, các đại biểu tham dự Hội thảo đều thống nhất ý kiến cần chính thức huỷ bỏ Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế (ví dụ thông qua một Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội).
Thứ ba, quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành trong nhiều trường hợp nhắc lại một cách không cần thiết các quy định trong BLDS. Các đại biểu kiến nghị cần tiến hành một rà soát tổng thể các quy định về hợp đồng trong BLDS và các văn bản khác để đưa toàn bộ các quy định chung về hợp đồng vào BLDS, pháp luật chuyên ngành chỉ quy định những điểm khác biệt trong những hợp đồng chuyên ngành liên quan. Cụ thể, BLDS có thể quy định về những vấn đề sau đây:
- Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng;
- Điều kiện có hiệu lực của giao dịch và các trường hợp giao dịch vô hiệu, xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu;
- Thủ tục giao kết hợp đồng: đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm và địa điểm xác lập quan hệ hợp đồng; đại diện và uỷ quyền giao kết hợp đồng;
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Các hình thức trách nhiệm hợp đồng, căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Tuỳ từng lĩnh vực cụ thể, các văn bản pháp luật chuyên ngành có thể bổ sung các quy định liên quan tới: - Điều kiện cụ thể để các chủ thể tham gia hợp đồng;
- Hình thức mà hợp đồng cần đáp ứng (văn bản thông thường, văn bản có công chứng, chứng thực); - Một số đặc điểm riêng trong thủ tục giao kết hợp đồng;
- Một số trường hợp vô hiệu đặc thù; - Các đặc trưng của việc xác định mức độ chịu trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng;
- Các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng mang đặc thù của từng lĩnh vực cụ thể;
- Thủ tục khiếu nại đối với hành vi vi phạm hợp đồng và thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng (nếu cần quy định riêng).
- Những vấn đề khác mà các hợp đồng chuyên ngành có đặc trưng riêng (ví dụ theo thông lệ đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới) không giống với quy định chung tại BLDS .
Thứ tư, hiện nay pháp luật áp dụng cho một hợp đồng thuộc rất nhiều tầng nấc, văn bản khác nhau. Ví dụ, một hợp đồng bảo hiểm có thể đồng thời chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Thương mại (phần hợp đồng cung cấp dịch vụ), BLDS (phần về hợp đồng dịch vụ, hợp đồng chung và các phần khác liên quan – ví dụ các quy định về pháp nhân, uỷ quyền đại diện, tài sản...). Một số tầng pháp luật trong số đó là không cần thiết (ví dụ quy định về hợp đồng cung cấp dịch vụ nói chung trong Dự thảo LTM), khiến các chủ thể lúng túng khi áp dụng và làm cho hệ thống pháp luật về hợp đồng trở nên đồ sộ đáng kể. Việc sửa đổi đồng thời BLDS và LTM, hai văn bản pháp luật lớn quy định về những loại hợp đồng chung (các “tầng” chung) là một cơ hội tốt để chúng ta rà soát lại và lược bớt các tầng quy định về các loại hợp đồng chung không cần thiết trong hai văn bản này (các loại hợp đồng đã được giải quyết trong pháp luật chuyên ngành).
2. Về hình thức Hợp đồng
Có hai vấn đề cơ bản liên quan đến hình thức của Hợp đồng được các đại biểu nêu ra tại Hội thảo:
Vấn đề thứ nhất, thông điệp dữ liệu có được xem là một hình thức độc lập của Hợp đồng hay không? Dự thảo BLDS cũng như Dự thảo Luật Thương mại đều chưa làm rõ vấn đề này (Điều 373, 384 Dự thảo BLDS: thông điệp dữ liệu là hình thức độc lập; Điều 115 Dự thảo BLDS: thông điệp dữ liệu là một loại của văn bản). Về nguyên tắc, mọi hình thức cho phép thể hiện ý chí thoả thuận của các bên đều có thể được xem như một hình thức của Hợp đồng. Vì vậy, nên coi thông điệp dữ liệu là một hình thức độc lập của Hợp đồng. Pháp luật liên quan (ví dụ Luật Giao dịch điện tử) sẽ quy định cụ thể những trường hợp nào thông điệp dữ liệu được coi là có giá trị tương đương như văn bản.
Vấn đề thứ hai, về giá trị pháp lý liên quan đến hình thức của hợp đồng: Một số ý kiến cho rằng nội dung của hợp đồng (thoả thuận giữa các bên) mới là điều quan trọng. Pháp luật nhiều nước chỉ quan tâm đến nội dung mà không nhấn mạnh vấn đề hình thức. Theo các ý kiến này, không nên xem trọng quá vấn đề hình thức của hợp đồng, càng không nên quy định những vi phạm về hình thức có thể là căn cứ để tuyên bố một hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng về lý luận, hình thức hợp đồng có vai trò làm chứng cứ khi xảy ra tranh chấp và có ý nghĩa về quản lý nhà nước đối với giao dịch (đăng ký hợp đồng, công chứng - chứng thực hợp đồng). Quy định về hình thức tồn tại của hợp đồng liên quan trực tiếp tới 2 nội dung căn bản sau của pháp luật dân sự: - Thứ nhất, pháp luật không khuyến khích sự bội ước. Nói cách khác, không nên chỉ vì chưa có sự hoàn tất về hình thức hợp đồng mà tuyên hợp đồng vô hiệu trong khi sự thực thì các bên đã thống nhất ý chí về việc xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự. Lý do là nếu cho phép các bên dựa vào việc chưa hoàn tất thủ về hình thức hợp đồng để yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu thì quy định này sẽ khuyến khích các bên có lợi từ việc tuyên hợp đồng vô hiệu giải thoát trách nhiệm liên quan tới những cam kết của mình trước đó.
- Thứ hai, pháp luật không khuyến khích các chủ thể trốn tránh, vi phạm nghĩa vụ với Nhà nước (ví dụ các nghĩa vụ như nộp thuế, nghĩa vụ tôn trọng sự kiểm soát của nhà nước đối với giao dịch liên quan đến các loại tài sản đặc biệt...). Bởi vậy, có một số loại hợp đồng, để đảm bảo được nghĩa vụ của các bên trước nhà nước, pháp luật quy định các hợp đồng này buộc phải thể hiện dưới một dạng nhất định. Nếu coi hình thức luôn là điều kiện xem xét hiệu lực của giao dịch sẽ rất có thể rơi vào tình trạng pháp luật khuyến khích sự bội ước. Còn nếu như pháp luật không quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì trong một số trường hợp nhất định, pháp luật sẽ khuyến khích việc trốn tránh nghĩa vụ trước nhà nước bằng cách các bên thoả thuận hợp đồng theo các hình thức mà nhà nước không kiểm soát được. Từ đó, sẽ khuyến khích những loại giao dịch ngầm, thị trường ngầm phát triển. Với những lập luận trên, quy định tại khoản 2 Điều 113 của Dự thảo “Hình thức giao dịch dân sự chỉ là điều kiện có hiệu lực của giao dịch nếu pháp luật có quy định” về cơ bản là hợp lý. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay chúng ta có khá nhiều loại hợp đồng mà theo quy định trong Bộ luật dân sự và pháp luật chuyên ngành “hợp đồng phải được lập thành văn bản”, “hợp đồng phải được công chứng, chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, “hợp đồng phải được đăng ký ”… Vấn đề chưa rõ ràng ở đây là nếu hợp đồng không tuân thủ quy định trên sẽ vô hiệu hoàn toàn hay là không có giá trị đối kháng với bên thứ ba? hợp đồng khi đó là vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối? Do đó, để khoản 2 Điều 113 đi vào cuộc sống, cần thiết có sự rà soát cân nhắc để quy định rõ những loại hợp đồng nào phải tuân thủ điều kiện về hình thức mới có hiệu lực. Ngoài ra, một số ý kiến cũng cho rằng quy định tại khoản 1 Điều 125 về việc các bên hợp đồng có một thời hạn nhất định để tuân thủ các quy định về hình thức trong trường hợp pháp luật có yêu cầu là không khả thi bởi khi đã có tranh chấp thì các bên thường rất ít thiện chí để thực hiện việc sửa chữa sai sót này, đặc biệt đối với bên muốn hợp đồng vô hiệu để thu lợi.
3. Về các nội dung chủ yếu của Hợp đồng
Liên quan đến nội dung của hợp đồng (Điều 385 Dự thảo), có hai vấn đề được các đại biểu tham dự Hội thảo quan tâm: Khoản 1 Điều 385 “Nội dung chủ yếu của hợp đồng do pháp luật quy định; nếu pháp luật không quy định thì theo thoả thuận của các bên”. Có ý kiến cho rằng quy định này tuy không sai về mặt pháp lý nhưng có lẽ chưa thật hợp lý vì lý do (1) Hợp đồng là sự thoả thuận của các bên trong đó hàm chứa tất cả các nội dung, kể cả các nội dung chủ yếu; (2) Mỗi loại hợp đồng có đặc tính riêng của nó nên cần để các bên tự quyết định và thoả thuận với nhau; (3) Đối với một số loại hợp đồng nhất định, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, Nhà nước mới quy định những nội dung chủ yếu mà hợp đồng phải có. Bởi vậy, ý kiến này cho rằng đoạn này nên sửa thành “Nội dung chủ yếu của hợp đồng do các bên thoả thuận trừ một số loại hợp đồng do pháp luật quy định”. Khoản 2 Điều 385 “Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:...” (bao gồm: đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn - địa điểm - phương thức thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng). Có ý kiến cho rằng quy định này chưa rõ ràng: không rõ đây có phải là những nội dung bắt buộc phải có (tức các nội dung chủ yếu của hợp đồng) không ? - Nếu Đúng thì quy định này không hợp lý bởi nhiều nội dung được liệt kê không thật cần thiết, có thể khiến nhiều hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu; - Nếu Không thì quy định tại khoản 2 này thực chất có ý nghĩa gì? Nhiều ý kiến cho rằng điều khoản này được thiết kế giống như trong một giáo trình hơn là một quy phạm pháp luật. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng nên thiết kế lại nội dung khoản 2 này theo hướng: quy định cụ thể, phù hợp các nội dung bắt buộc phải có để hình thành một hợp đồng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những ý kiến cho rằng một hợp đồng được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các bên mà không nhất thiết phải có một nội dung bắt buộc nào đó (nếu các bên không có tranh chấp thì không có lý do gì để không thừa nhận hiệu lực của thoả thuận giữa họ với nhau dù thoả thuận đó có thể thiếu một vài yếu tố như giá cả, số lượng...). Có lẽ những tranh cãi về việc có nên quy định về các nội dung bắt buộc phải có của hợp đồng hay không cần được xem xét một cách đầy đủ với một quan điểm tiếp cận hợp lý và khoa học: Cụ thể, Hợp đồng là sự thống nhất ý chí giữa các bên liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nhất định (trong đó yếu tố nghĩa vụ là cơ bản, vấn đề quyền của một bên phát sinh tương ứng với việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia). Như vậy, về mặt nguyên tắc hợp đồng phải có các nội dung đủ để thể hiện các nghĩa vụ này. Nếu nghĩa vụ được hiểu (như trong Dự thảo BLDS) là việc chuyển giao một vật, một khoản tiền, chuyển nhượng quyền, thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định thì hợp đồng không thể thiếu ba yếu tố sau: (i) đối tượng (giao vật, khoản tiền, chuyển quyền, công việc) (ii) số lượng/yêu cầu dịch vụ (đặc định hoá đối tượng) (iii) giá cả (hình thức quyền phát sinh tương ứng với việc thực hiện nghĩa vụ) Với cách tiếp cận như thế này thì rõ ràng các quy định tại khoản 2 (nếu được xem là các nội dung bắt buộc phải có của hợp đồng) là quá rộng so với ba yếu tố bắt buộc phải có về mặt logic nói trên. Tuy nhiên, nếu không quy định bất kỳ nội dung gì thì cũng sẽ là không phù hợp. Tóm lại, ít nhất một hợp đồng cần có ba nội dung cơ bản nói trên. Tuy nhiên, cần làm rõ rằng ba yếu tố bắt buộc phải có của hợp đồng có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là minh thị cũng có thể là ngầm định, chỉ cần có tồn tại là được (pháp luật về hợp đồng lại đang hiểu theo cách: các yếu tố này phải được biểu hiện một cách minh thị, rõ ràng. Đây là nguyên nhân gây ra những tranh cãi hiện nay về việc có hay không có các nội dung bắt buộc của hợp đồng).
4. Về Giao kết Hợp đồng
Dự thảo BLDS đã có những sửa đổi quan trọng liên quan đến giao kết hợp đồng (bao gồm đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết). Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng các quy định sau còn bất cập: Khoản 3, Điều 372: “Trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời, bên đề nghị giao kết hợp đồng không được mời người thứ ba giao kết và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình.” Có ý kiến cho rằng quy định như thế này là quá chặt và không phù hợp với thực tế. Cần quy định hai loại đề nghị: tự do (free offer) và cố định (firm offer) như Luật Dân sự và Luật Thương mại các nước thường quy định. Ngoài ra, cần lưu ý tới các hành vi rao vặt, mua, bán phổ biến trong đời sống thực tế hiện nay. Mục b, khoản 1, Điều 374: Trường hợp thay đổi, rút lại đề nghị: “... bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.” Đây không phải là thay đổi, rút lại đề nghị mà đúng hơn là “đề nghị hết hiệu lực” khi phát sinh những điều kiện mà bên đề nghị đưa ra trong đề nghị. Điều 376: “Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng” nên sửa lại cho chính xác là “chấm dứt hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng.” Khoản 5 Điều này cần thay cụm từ “trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời” bằng “trong thời hạn hiệu lực của đề nghị” vì khái niệm chờ vừa mơ hồ, vừa không mang tính pháp lý. Khoản 1, Điều 379 Thời hạn chấp nhận giao kết hợp đồng Quy định này không rõ ràng và dễ gây ra tranh chấp cũng như khó cho toà án trong việc xét xử. Ấn định thời hạn trả lời là rất cần thiết và quan trọng, nhưng cái mốc để xác định có đúng thời hạn hay không lại chưa quy định: tại thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận hay thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp nhận? Nhưng đoạn kế tiếp lại nêu “nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời, thì lời chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời”, nên những chấp nhận được gửi trong thời hạn trả lời nhưng lại đến sau khi thời hạn này chấm dứt thì lại không có cách xử lý, dễ gây tranh cãi. Bởi vậy, khoản 1, Điều 379 này cần được quy định đầy đủ, chi tiết hơn bằng những tiêu chí cụ thể về thời điểm nhận hoặc gửi chấp nhận. Vấn đề này liên quan tới điều 380, 383. Ngoài ra cũng cần bổ sung quy định về cách thức giải quyết trong trường hợp chận nhận đề nghị giao kết được gửi đi trong thời hạn nhưng lại đến sau khi đã hết thời hạn này. Khoản 2, Điều 387 Thời điểm giao kết hợp đồng: “Hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.” Quy định này không mang tính thực tế vì hiếm khi các bên có thoả thuận “im lặng là đồng ý” trước khi họ gửi cho nhau “đề nghị” và “chấp nhận đề nghị”.
5. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự (Điều 408)
Về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng, các đại biểu có ý kiến về hai vấn đề sau:
Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu:Điều 408 Dự thảo BLDS quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 3 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm”. Điều này có nghĩa là ngày bắt đầu của thời hiệu khởi kiện là ngày có hành vi vi phạm (Điều 596 về thời hạn khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng tiếp cận theo cách này “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm”), nó có thể trùng hợp với ngày phát hiện vi phạm nhưng trong đa số trường hợp thời điểm xảy ra hành vi vi phạm thường sớm hơn thời điểm phát hiện có vi phạm (bởi không phải khi nào bên bị vi phạm cũng biết về việc vi phạm ngay khi có hành vi vi phạm, trong rất nhiều trường hợp phải qua một thời gian rất lâu người bị vi phạm mới biết về điều này). Vì vậy, không ít ý kiến cho rằng nên quy định lại về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện: thời điểm đó nên là thời điểm người bị vi phạm biết hoặc buộc phải biết về hành vi vi phạm. Quy định như vậy sẽ bảo vệ tốt hơn quyền lợi của bên bị vi phạm. Điều này cũng phù hợp với các quy định trong pháp luật nhiều nước. Tuy nhiên, cũng có ý kiến ngược lại cho rằng cách quy định hiện tại của Dự thảo BLDS về vấn đề này là hợp lý. Đúng là việc phát hiện ra hành vi vi phạm có thể chậm hơn và nếu bỏ tiêu chí “phát hiện” thì sẽ phương hại đến quyền và lợi ích chính đáng của bên được hưởng quyền lợi. Tuy nhiên, điều này đã được giải quyết trong các quy định về thời hạn khiếu nại đối với hàng hoá, dịch vụ và các nghĩa vụ khác của mỗi bên trong hợp đồng. Việc quy định thời hạn khiếu nại (chứ không phải thời hiệu khởi kiện) có tác dụng trong việc nâng cao trách nhiệm của mỗi bên cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ riêng bên nào.
Thứ hai, về ý nghĩa của thời hiệu:Có ý kiến cho rằng cách hiểu về thời hiệu ở Việt Nam không thật giống với thế giới. Nếu như trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thời hiệu này được hiểu là khoảng thời gian trong đó các chủ thể có quyền khởi kiện, họ mất quyền khởi kiện khi kết thúc khoảng thời gian này. Trong khi đó, trong nhiều hệ thống pháp luật nước ngoài, thời hiệu là thời hạn mà khi hết thời hạn đó người có nghĩa vụ có quyền không thực hiện nghĩa vụ. Nói một cách khác, theo cách hiểu của nhiều nước, khi hết thời hiệu, người bị vi phạm vẫn có thể khởi kiện, Toà án không có quyền bác đơn của họ nhưng lúc xử lý thì sẽ giải quyết theo hướng người vi phạm không còn phải thực hiện nghĩa vụ nữa vì hết thời hiệu. Rõ ràng nếu đi theo hướng của các nước thì quyền lợi của các bên được bảo vệ ở mức độ cao hơn. Việc giải quyết thật toàn diện vấn đề ý nghĩa của thời hiệu này không chỉ là cơ sở để có cách quy định phù hợp mà còn giúp trả lời câu hỏi nên quy định thời hiệu trong luật nội dung hay luật hình thức (tố tụng). Nếu thời hiệu hiểu là khoảng thời gian trong đó bên có quyền có thể khởi kiện thì nên để chế định này trong pháp luật tố tụng; ngược lại, nếu hiểu thời hiệu là khoảng thời gian mà khi hết thời hạn đó thì bên có nghĩa vụ được miễn trừ việc thực hiện nghĩa vụ thì đương nhiên đây là vấn đề thuộc về luật nội dung.
6. Về Hợp đồng theo mẫu (Điều 390)
Có ý kiến đại biểu cho rằng không nên quy định như khoản 2, 3 Điều 390 của Dự thảo: đành rằng mục đích của nó là đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các bên nhưng rõ ràng là việc xác định “tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia” là một việc làm dễ gây tranh chấp và làm khó cho toà án. Đã là hợp đồng thì đó là sự thoả thuận giữa các bên, dù là hợp đồng mẫu. Chúng ta chỉ loại trừ những điều khoản mang tính ép buộc, bất bình đẳng măng tính hiển nhiên và pháp luật ngăn cấm, còn chuyện bất lợi hoặc tăng trách nhiệm, pháp luật không nên can thiệp. Pháp luật các nước thường xử lý vấn đề này theo hướng: Hợp đồng mẫu hoàn toàn không bất biến; các bên có thể thương lượng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ một hoặc một số điều khoản trong hợp đồng mẫu này. Luật về vận tải đơn (B/L) là một thí dụ điển hình.
7. Về Giải thích Hợp đồng (Điều 392)
Khoản 2, Điều 392 “Khi một hợp đồng có thể hiểu theo nhiều nghĩa, thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên.” Có ý kiến cho rằng quy định này không đúng ở hai phương diện: - Chọn nghĩa của hợp đồng là chọn theo ý chí thực của các bên và theo bản chất của vấn đề; - Khi một tranh chấp xảy ra, khó (không thì đúng hơn) có chuyện “khi thực hiện có lợi nhất cho các bên”. Bởi vậy, nên dành cho toà án quyền giải thích và quyết định theo bản chất của vụ việc và ý chí thực của các bên khi ký hợp đồng.
8. Về hợp đồng vô hiệu
Điều 393 về hợp đồng vô hiệu chưa giải quyết vấn đề vô hiệu của Phụ lục Hợp đồng, cụ thể: - Hợp đồng phụ với phụ lục hợp đồng có gì khác nhau không? - Thường thì các bên đều thoả thuận rằng phụ lục hợp đồng là bộ phận bổ sung và không tách rời của hợp đồng; - Phụ lục hợp đồng chỉ giải quyết một hoặc một số vấn đề nhất định nên sự vô hiệu của phụ lục chỉ làm vô hiệu những vấn đề mà nó đề cập tới. Tuy nhiên, trong thực tiễn thương mại (nhất là thương mại quốc tế) vẫn có thể có trường hợp phụ lục đề cập tới vấn đề cốt lõi của hợp đồng mà nếu không được thực hiện, hợp đồng coi như không còn giá trị (như thời hạn giao hàng theo thời vụ; chỉ giao hàng đựoc khi không có chiến tranh hoặc biến động chính trị). Điều 119 về Giao dịch dân sự vô hiệu quy định : “Giao dịch dân sự có đối tượng, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”. Có ý kiến cho rằng khái niệm “vi phạm điều cấm của pháp luật” sử dụng trong quy định này là quá rộng. Ví dụ trong một hợp đồng mua bán hàng hoá các bên đã thoả thuận thanh toán bằng ngoại tệ thì thoả thuận đó vi phạm quy định về quản lý về ngoại hối, cũng là vi phạm điều cấm của pháp luật. Tuy nhiên không nên quan niệm thoả thuận đó trái quy định của pháp luật theo BLDS và nhất là không coi đó là điều kiện để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Pháp luật về hợp đồng vẫn phải tôn trọng các thoả thuận trong các hợp đồng như vậy, nhất là trong điều kiện nó đã được thực hiện để thể hiện tinh thần tôn trọng quyền tự do hợp đồng và thúc đẩy các giao dịch trong kinh tế thị trường. Với vi phạm này, các bên phải bị xử phạt hành chính theo pháp luật về quản lý ngoại hối.
9. Về việc thực hiện Hợp đồng
Điều 397 - Thực hiện hợp đồng song vụ “Không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp quy định tại điều 399 của Bộ luật này”. Quy định như vậy dễ dẫn đến các bên cho rằng đây là một nguyên tắc cứng nhắc mà trên thực tế có rất nhiều trường hợp một bên không thể thực hiện hợp đồng hoặc phải hoãn việc thực hiện này nếu việc thực hiện của bên kia là tiền đề cho các hành vi của bên phải thực hiện nghĩa vụ. Bởi vậy, nên bỏ đoạn “không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình”. Điều 399 – Không thực hiện nghĩa vụ do lỗi của bên có quyền: “Trong hợp đồng song vụ, khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại” Điều này chỉ quy định “do lỗi của bên kia” thì chưa đầy đủ - cần xác định “lỗi của bên kia” trong trường hợp này phải là nguyên nhân trực tiếp và là tiền đề của việc không thực hiện nghĩa vụ. Bởi vậy, cần phải bổ sung quy định này. Trong thực tiễn thương mại quốc tế, yếu tố nguyên nhân trực tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng, ví dụ: người bán không thể nào giao hàng được nếu như người mua không mở L/C, hoặc người bán theo điều kiện giao hàng FOB cũng không thể giao hàng hoặc giao hàng đúng thời hạn nếu người mua không điều tàu hoặc điều tàu đến không đúng hạn (nghĩa vụ thuê tàu là của người mua). Ngoài ra, quy định “khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia, thì có quyền yêu cầu bên kia phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại” tại Điều này cũng cần phải xem xét lại. Trong thực tiễn thương mại quốc tế, ngoài chế tài bồi thường thiệt hại, còn có chế tài phạt. Ví dụ: Trong hợp đồng, các bên có thể thoả thuận nếu người bán không giao hàng cho người mua thì người bán phải chịu mức phạt 2% trị giá hợp đồng, hoặc ngược lại nếu người mua không mở L/C thì người này cũng chịu mức phạt 2% như trên. Bởi vậy, cần bổ sung chế tài phạt.
10. Huỷ hợp đồng (Điều 406)
Khoản 1 Điều 406 “Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”. Quy định như thế này e rằng chưa đầy đủ và chưa sát với thực tế, bởi vì như vậy quyền huỷ bỏ hợp đồng chỉ xảy ra trong 2 trường hợp: - Các bên đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong thực tế thì khi ký kết hợp đồng các bên thường ít quy định và không lường hết trước được những loại vi phạm nào sẽ xảy ra để một bên có quyền huỷ hợp đồng. - Pháp luật cũng thường chỉ đề ra những nguyên tắc cho việc huỷ hợp đồng, không thể nào có những quy định cụ thể bao hàm hết các trường hợp để huỷ hợp đồng. Pháp luật và tập quán thương mại quốc tế thường đề ra tiêu chí về mức độ vi phạm để xác định quyền huỷ hợp đồng. Tất nhiên đây là một việc khó nhưng trọng tài hoặc toà án khi xét xử các vụ tranh chấp vẫn có thể xử lý được. Các chuyên gia Pháp thì đưa ra khái niệm vi phạm nghiêm trọng, còn tại Điều 314 Luật Thương mại (sửa đổi) có đưa ra trường hợp “một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Có lẽ BLDS cũng nên bổ sung trường hợp “vi phạm nghiêm trọng hợp đồng” như một căn cứ để huỷ hợp đồng.
11. Trách nhiệm do giao vật không đúng số lượng (Điều 416)
Khoản 2 Điều 416 quy định: “Trong trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận, thì bên mua có một trong các quyền sau đây: (a) Nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại; ( Nhận phần đã giao và định thời hạn để bên bán giao tiếp phần còn thiếu; © Huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Có ý kiến cho rằng cân nhắc kỹ mục © này bởi vì nếu quy định như trên thì người ta hiểu một cách đơn giản là khi bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận, thì bên mua lập tức và đương nhiên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khi đó quy định này thành vô lý và không phù hợp với thực tiễn, nhất là thực tiễn thương mại quốc tế . Bởi vậy, nếu đưa chế định huỷ hợp đồng vào điều này thì cần nêu điều kiện để huỷ như trong dự thảo LTM.
12. Thời điểm chuyển quyền sở hữu (Điều 420)
Quyền sở hữu là một chỉnh thể bao gồm ba thành tố: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt (trong đó quyền định đoạt có ý nghĩa quan trọng nhất về mặt pháp lý; quyền chiếm hữu là đảm bảo quan trọng cho quyền sở hữu trên thực tế; quyền sử dụng chỉ có ý nghĩa về kinh tế, vật chất). Như vậy, về mặt nguyên tắc, quyền sở hữu sẽ được chuyển khi quyền định đoạt được chuyển. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chắc chắn, pháp luật có thể qui định thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm chuyển quyền chiếm hữu (ví dụ đối với những loại tài sản khó chứng minh quyền định đoạt, quyền sở hữu của chủ sở hữu trên tài sản đó) bởi việc chiếm hữu dễ xác định hơn và đảm bảo hơn. Do đó, về lý thuyết, thời điểm chuyển quyền sở hữu một tài sản có thể là : (i) thời điểm ký kết hợp đồng mua bán ; (ii) thời điểm chuyển giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản; (iii) thời điểm giao tài sản. Tuỳ từng loại tài sản mà pháp luật có thể có lựa chọn cụ thể một thời điểm nhất định trong số này. Tuy nhiên, cả ba thời điểm trên đều phải được thừa nhận về nguyên tắc (đặc biệt trong một luật chung như BLDS). Vì vậy, quy định tại Điều 420 Dự thảo BLDS thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm tài sản được chuyển giao (Điều 420) (thời điểm (iii)) có lẽ chưa thật đầy đủ và chính xác cho tất cả các trường hợp.
13. Về mức lãi suất thoả thuận trong hợp đồng cho vay (Điều 460)Điều 460 quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Quy định nói trên có lẽ chưa thật phù hợp với các quy định hiện hành về lãi suất của NHNN. Cụ thể, Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN quy định kể từ ngày 01/06/2002 NHNN chỉ công bố lãi suất cơ bản để các tổ chức tín dụng tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Như vậy, NHNN không quy định lãi suất cao nhất cao nhất (mà chỉ là lãi suất cơ bản làm căn cứ để các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất của mình). Điều này khiến cho quy định tại Điều 460 Dự thảo BLDS rất khó áp dụng trên thực tế.
*****************************************************
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, với sự hỗ trợ của Dự án STAR, đã tổ chức hai Hội thảo lấy ý kiến rộng rãi của các doanh nghiệp, hiệp hội và chuyên gia về Dự thảo BLDS sửa đổi tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (vào các ngày 7 và 18/3/2005).
BÀI NÀY LÀ KẾT QUẢ Tổng hợp ý kiến của khoảng 200 đại biểu là đại diện từ các doanh nghiệp, các Bộ ngành, các chuyên gia pháp lý tham dự Hội thảo.
Share on Google Plus

About Unknown

250 x 250
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét